Bảo vệ nguồn gen

Việt Nam chú trọng đến vấn đề bảo hộ nguồn gen

Quan điểm của Việt Nam là ủng hộ việc bộc lộ bắt buộc nguồn gen, tri thức truyền thống liên quan trong đơn sáng chế, có xin phép.
Từ ngày 1-9/10 đã diễn ra phiên họp lần thứ 50 của Đại hội đồng các quốc gia thành viên Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tại Geneva, Thụy Sĩ.

Trưởng đoàn Việt Nam tham dự phiên họp, ông Tạ Quang Minh, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ quốc gia đã có buổi trả lời phỏng vấn với phóng viên thường trú TTXVN tại Thụy Sĩ.

- Cục trưởng có thể cho biết những mong muốn và sự quan tâm đặc biệt của Việt Nam trong phiên họp lần thứ 50 của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) tại Geneva lần này?

Cục trưởng Tạ Quang Minh: Đại hội đồng WIPO là cơ quan quyền lực nhất của WIPO, có nhiệm vụ xem xét và quyết định các vấn đề do các liên minh và ủy ban kiến nghị. Năm nay, các nội dung mà Việt Nam quan tâm gồm rà soát lại kết quả làm việc của các Ủy ban trong năm qua và đưa ra định hướng trong năm tới. Đặc biệt, Việt Nam quan tâm đến vấn đề đàm phán về bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian và triển khai Chương trình phát triển WIPO - chương trình hỗ trợ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Việt Nam đang được hưởng lợi từ việc triển khai các Dự án thuộc Chương trình phát triển, cụ thể: đang nhận được sự hỗ trợ của WIPO trong việc tiếp cận với các nguồn thông tin sáng chế và phi sáng chế, tiếp cận với Chương trình Tiếp cận với cơ sở dữ liệu phục vụ việc nghiên cứu và phát triển của WIPO trong khuôn khổ Dự án Tiếp cận với cơ sở dữ liệu; đang phối hợp với WIPO nghiên cứu, hỗ trợ ba sản phẩm được lựa chọn gồm Chè Ba Vì, nước mắm Phú Yên và Hoa Đà Lạt để xây dựng thương hiệu.

Ngoài những mong muốn, Việt Nam cũng có những kế hoạch triển khai hợp tác song phương với các cơ quan Sở hữu trí tuệ của các nước như là Mỹ, Pháp, Nga, Australia và chúng ta cũng là một trong những thành viên của ASEAN mà tổ chức này có các mối quan hệ hợp tác với các cơ quan sở hữu trí tuệ thế giới WIPO và Cơ quan Sáng chế châu Âu (EPO) và với Nhật Bản. Đây cũng là dịp để chúng ta học tập kinh nghiệm, tham gia đánh giá các xu hướng bảo hộ sở hữu trí tuệ trên thế giới để có định hướng phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam cho phù hợp, đồng thời đẩy mạnh hợp tác kỹ thuật của Việt Nam với WIPO và chủ động tìm kiếm các cơ hội hợp tác.

- Vấn đề bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian ở phạm vi toàn cầu đang là một trong những vấn đề được quan tâm của WIPO, Cục trưởng có thể điểm qua tình hình đàm phán vấn đề này trong khuôn khổ WIPO và lập trường và sự tham gia của Việt Nam trong thời gian qua?

Cục trưởng Tạ Quang Minh: Là một nước giàu nguồn gen, giàu tri thức truyền thống, chúng ta rất quan tâm đến vấn đề bảo hộ nguồn gen. Theo quyết định của Đại hội đồng, các cuộc đàm phán đã được thực hiện về các vấn đề bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian dựa trên dự thảo văn kiện do Ban thư ký đưa ra. Hiện nay, Ủy ban liên chính phủ về Sở hữu trí tuệ và nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian (IGC) đã họp rất nhiều phiên và đạt được một số kết quả nhất định.

Qua hai năm đàm phán, những vấn đề trên đã đạt được một số tiến bộ về hình thức, nghĩa là các nước đã chấp nhận đàm phán và có ý kiến về lời văn của các dự thảo. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt là phương thức bảo hộ (bộc lộ bắt buộc, thiết lập các cơ sở dữ liệu hay điều chỉnh thông qua hợp đồng) thì chưa đạt được sự tiến triển vì có nhiều quan điểm khác nhau. Một số nước đang phát triển muốn bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống rất là mạnh, trong khuôn khổ của pháp luật sở hữu trí tuệ và có chế tài để chống lại sự xâm phạm. Một số nước phát triển lại không muốn bảo hộ theo cơ chế như vậy, mà bảo hộ dưới dạng hợp đồng riêng lẻ, có thể sử dụng hệ thống tòa án dân sự hoặc hành chính để xử lý những trường hợp vi phạm.

Quan điểm của Việt Nam là ủng hộ việc bộc lộ bắt buộc nguồn gen, tri thức truyền thống liên quan trong đơn sáng chế, có cơ chế xin phép trước và chia sẻ lợi ích và có chế tài cho các hành vi không tuân thủ. Việt Nam cho rằng việc đạt được các Văn kiện quốc tế có tính ràng buộc về bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian là rất quan trọng nhằm cung cấp công cụ hiệu quả chống lại việc ăn cắp tài nguyên sinh học và sử dụng trái phép nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian. Tuy nhiên, việc bảo hộ và sử dụng bền vững nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian chỉ có thể đạt được thông qua việc thiết lập các quy tắc và nghĩa vụ phù hợp với các mục tiêu và nguyên tắc của Công ước về Đa dạng sinh học và Nghị định thư Nagoya về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích thu được từ việc sử dụng chúng. Do đó, Việt Nam ủng hộ việc tổ chức các phiên họp, nếu cần thiết, trong IGC để hoàn tất các nội dung còn khác biệt, cũng như việc triệu tập Hội nghị ngoại giao để thông qua các Dự thảo văn kiện này.

- Trong Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội hướng tới năm 2020 của Việt Nam có nhấn mạnh đến việc tập trung phát triển và khai thác các tài sản sở hữu trí tuệ, Cục trưởng có thể nêu rõ vai trò của sở hữu trí tuệ đối với việc thúc đẩy đổi mới và sáng tạo trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của đất nước?

Cục trưởng Tạ Quang Minh: Trước tiên cũng cần phải hiểu sở hữu trí tuệ là gì? Sở hữu trí tuệ là quyền đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ gồm ba bộ phận cấu thành là Quyền sở hữu công nghiệp; Quyền tác giả và quyền liên quan; Quyền đối với giống cây trồng mới. Các đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, thiết kế, tên thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đó là bảo hộ độc quyền sử dụng và ngăn người khác sử dụng cho chủ sở hữu quyền trong một thời gian nhất định. Đổi lại, chủ sở hữu quyền phải bộc lộ các thông tin. Nhờ việc bộc lộ thông tin đó mà xã hội biết đến những công nghệ mới, sáng chế mới để không có những đầu tư sáng chế trùng lặp, tránh chi phí vô ích. Từ việc tiết kiệm chi phí, họ sẽ khả năng đầu tư để phát triển công nghệ đó lên. Bằng cơ chế đó, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ khuyến khích các nhà sáng tạo, các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào nghiên cứu và triển khai các công nghệ mới, từ đó nâng cao giá trị gia tăng trong các sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Ngoài ra, việc bảo hộ sáng chế, công nghệ mới cũng là một công cụ để khuyến khích đầu tư, chuyển giao công nghệ mới. Vì không một công ty nào hay nhà đầu tư nào muốn đưa vào một nước không có gì đảm bảo cho việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Khi đó không có gì đảm bảo rằng những sản phẩm sáng tạo của họ không bị đánh cắp vì vậy họ sẽ không thu hồi được vốn mà họ đã đầu tư để nghiên cứu sáng tạo. Chính vì vậy, nếu có được cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả sẽ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đưa các công nghệ mới vào đầu tư tại Việt Nam và chuyển giao các công nghệ mới cho Việt Nam. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu của Việt nam cũng có thể tìm hiểu các thông tin sáng chế đang được bảo hộ để tránh nghiên cứu trùng lặp và xác định các xu thế công nghệ của thế giới để đầu tư nghiên cứu. Đối với sáng chế đã hết thời gian sử dụng, các doanh nghiệp Việt Nam có thể đầu tư áp dụng miễn phí./.

Tố Uyên/Geneve (Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục