Chính sách sử dụng nhiên liệu sinh học ở Philippines

Hưởng ứng Thông cáo Cebu kêu gọi tìm nguồn thay thế năng lượng hóa thạch, Philippines đã xúc tiến thông qua luật Nhiên liệu sinh học.
Nhu cầu năng lượng của Philippines tăng dần theo từng năm, từ 225.000 thùng/ngày vào những năm 1980 lên đến 338.000 thùng/ngày năm 2003; trong đó 90% lượng dầu phải nhập khẩu.

Năng lượng dùng cho ngành giao thông vận tải chiếm tới 46,22% nhu cầu tiêu thụ năng lượng toàn quốc (năm 2003) và nhu cầu tiêu thụ tăng dần với tốc độ khoảng 4,9% năm (năm CESDR, 2005).

Tại Hội nghị thượng đỉnh của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) năm 2007, tổ chức tại Philippines, các nước ASEAN và các nước đối tác đã thông qua Thông cáo Cebu về vấn đề an ninh năng lượng cho khu vực Đông Á.

Thông cáo này kêu gọi các nước có hành động nhanh trong việc tìm nguồn năng lượng thay thế năng lượng hoá thạch đáp ứng nhu cầu trong nước và bảo đảm phát triển bền vững.

Hưởng ứng lời kêu gọi trong Thông cáo Cebu, Chính phủ Philippines đã xúc tiến và thông qua điều luật Nhiên liệu sinh học số 9367 (còn gọi là điều luật Nhiên liệu sinh học 2006) có hiệu lực từ ngày 12/7/2007.

Theo điều luật này, Chính phủ Philippines công bố chính sách quốc gia nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hoá thạch với mục đích bảo vệ sức khỏe cộng đồng, môi trường và hệ sinh thái tự nhiên phù hợp với sự phát triển bền vững của quốc gia, đồng thời tạo cơ hội nghề nghiệp và tăng thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn.

Khoản 5 của Điều luật này quy định bắt buộc tất cả các loại nhiên liệu lỏng dùng cho động cơ xăng đang sử dụng tại Philippin phải chứa các thành phần nhiên liệu sinh học như trong vòng hai năm kể từ ngày điều luật có hiệu lực, tỷ lệ cồn biến tính pha trộn vào xăng sẽ chiếm ít nhất 5% trong tổng nhu cầu xăng được bán và phân phối tại mỗi công ty xăng dầu trên toàn quốc, tuỳ thuộc vào nhu cầu mà tất cả hỗn hợp xăng sinh học sẽ chứa tối thiểu 5% thể tích cồn biến tính phù hợp với quy định trong tiêu chuẩn quốc gia của Philippines.

Đồng thời, trong vòng bốn năm kể từ khi điều luật có hiệu lực, ủy ban nhiên liệu sinh học Quốc gia được trao quyền các định tính khả thi và sau đó đề xuất với Bộ Năng lượng để bắt buộc pha tối thiểu 10% thể tích cồn biến tính trong tổng nhu cầu xăng để phân phối và bán tại mỗi công ty xăng dầu trên toàn quốc; trong trường hợp thiếu nguồn cung cấp cồn nhiên liệu pha chế xăng sinh học, các công ty xăng dầu sẽ được phép nhập khẩu ethanol nhưng chỉ trong phạm vi thiếu hụt được xác định bởi uỷ ban nhiên liệu sinh học Quốc gia.

Khoản 6 của Điều luật quy định về các ưu đãi đối với việc phát triển xăng sinh học. Theo đó, ngoài các ưu đãi đã được ban hành, nhà sản xuất, phân phối và sử dụng xăng sinh học còn được hưởng thêm các ưu đãi như thuế đặc biệt: thuế đặc biệt dùng cho ethanol sinh học trong xăng sinh học ở địa phương hoặc nhập khẩu giảm xuống bằng không, trong khi thành phần xăng gốc thông thường vẫn chịu thuế đặc biệt theo quy định hiện hành; thuế giá trị gia tăng: nguyên liệu bán cho nhà máy để sản xuất ethanol sinh học sẽ được miễn thuế giá trị gia tăng.

Nguồn nước sử dụng trong sản xuất ethanol sinh học: miễn phí cho nguồn nước thải ra khỏi nhà máy sản xuất ethanol sinh học; hỗ trợ tài chính: các cơ quan tài chính của Chính phủ như Ngân hàng Phát triển Philippines, Ngân hàng Nông nghiệp Philippines, ... cung cấp dịch vụ tài chính theo quy định và trong phạm vi cho phép theo các quy định của điều lệ tương ứng của pháp luật, phù hợp với ưu tiên cao để mở rộng tài trợ cho công dân Philippines và các tổ chức trong nước, ít nhất 60% vốn cổ phần tham gia vào các hoạt động có liên quan đến sản xuấ, tồn trữ, xử lý và vận chuyển nguyên liệu, nhiên liệu sinh học./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục