Sửa đổi cơ chế để tập đoàn kinh tế hiệu quả hơn

Phó Thủ tướng cho rằng, sửa đổi cơ chế chính sách là rất quan trọng để các tập đoàn có quyền thực trong điều hành sản xuất kinh doanh.
Tại hội nghị sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế do Văn phòng Chính phủ tổ chức ngày 9/12, hầu hết đại diện các tập đoàn kinh tế đều tập trung phản ánh những bất cập của cơ chế chính sách làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động.

Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng, việc sửa đổi cơ chế chính sách là rất quan trọng để các tập đoàn có quyền thực trong điều hành sản xuất kinh doanh, trên tinh thần năng suất và hiệu quả là thước đo quan trọng nhất.

Những “quả đấm thép”

Qua 5 năm thí điểm hình thành các tập đoàn kinh tế có thể thấy, các tập đoàn đã khắc phục được những tồn tại khá cơ bản của mô hình tổng công ty nhà nước trước đây. Các tập đoàn kinh tế được giao quyền tự chủ kinh doanh theo quan hệ cung cầu của thị trường và trong khuôn khổ của pháp luật. Các cơ quan hành chính nhà nước không can thiệp trực tiếp, cụ thể vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Cũng không thể phủ nhận những kết quả đạt được trong 5 năm qua của các tập đoàn kinh tế. Họ thực sự là những “quả đấm thép” chủ lực đối với các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế trong việc bảo đảm cung ứng những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế như dầu thô, khí, điện, than, xi măng, hóa chất cơ bản, thép, phân bón, bưu chính, viễn thông.

Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) là một ví dụ. Qua 5 năm triển khai mô hình tập đoàn cùng với tiến hành song song từng bước triển khai sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, PVN đã thực sự đóng vai trò quan trọng là một trụ cột của nền kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng, an sinh xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển. Trong giai đoạn này, tập đoàn đã đưa 5 nhóm sản phẩm mới vào phục vụ nền kinh tế là điện, xăng dầu, CNG (khí thiên nhiên nén), năng lượng sạch và sản phẩm nhiên liệu sinh học.

Theo số liệu đã công bố của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, sau 5 năm, doanh thu của PVN tăng gấp 5,15 lần; nộp ngân sách tăng gấp 2,04 lần; lợi nhuận trước thuế hợp nhất tăng gấp 2,2 lần. tập đoàn đã cơ bản hình thành được ngành công nghiệp khí Việt Nam hoàn chỉnh từ khâu tìm kiếm thăm dò khai thác-khí-điện-chế biến và dịch vụ dầu khí; tiên phong và thực hiện có hiệu quả các dự án trọng điểm nhà nước về dầu khí và bước đầu mở rộng hoạt động đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở nước ngoài.

Chịu trách nhiệm chính trong sản xuất và cung ứng điện cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân thông qua giữ tỷ lệ công suất chi phối của toàn hệ thống điện, qua 5 năm hoạt động theo mô hình tập đoàn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được đánh giá thực hiện được nhiệm vụ đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tăng trưởng điện luôn gấp 2 lần GDP.

Với khối lượng đầu tư 203.015 tỷ đồng trong 5 năm, EVN đã cung ứng cho nền kinh tế trên 97 tỷ kWh, đưa điện về 95,86% số hộ dân nông thôn, vượt 5,86% so với chỉ tiêu nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng.

Trong lĩnh vực cung ứng than, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đang chiếm khoảng 98% thị phần trong nước; bước đầu triển khai đầu tư, khai thác, chế biến khoáng sản ra nước ngoài. Ông Trần Xuân Hoà, Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinacomin nhận định, mô hình tổ chức của tập đoàn Vinacomin là hoàn toàn phù hợp với phương thức quản lý hiện nay.

Mối quan hệ giữa tập đoàn (Công ty mẹ) với các công ty thành viên là quan hệ kinh tế thay cho quan hệ hành chính cấp trên, cấp dưới trước đây. Cụ thể, thực hiện vai trò là chủ sở hữu và chủ thể quản lý tài nguyên, Công ty mẹ Vinacomin đã thiết lập cơ chế quản trị, điều hành trong nội bộ tập đoàn, thông qua kế hoạch phối hợp kinh doanh, ký hợp đồng giao nhận thầu khai thác, sàng tuyển, kinh doanh than với các công ty con.

Cơ chế này giúp tập đoàn tập trung tích tụ vốn về công ty mẹ để thực hiện các dự án đầu tư lớn, phát triển kinh doanh các lĩnh vực mới, đồng thời điều hòa chênh lệch địa tô mỏ giữa các công ty con để cùng phát triển và khai thác tài nguyên một cách bền vững. Với hướng đi này, sau 5 năm hoạt động theo mô hình tập đoàn, sản xuất và tiêu thụ than của Vinacomin đã tăng 1,4 lần, doanh thu tăng 3,5 lần, lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu đạt 34,4%.

Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) và tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) là hai doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông hàng đầu. Trong đó, VNPT là nòng cốt cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích. Đây cũng là doanh nghiệp duy nhất bảo đảm việc phục vụ yêu cầu thông tin, liên lạc của các cơ quan Đảng, Nhà nước.

Chủ tịch Hội đồng thành viên VNPT Phạm Long Trận cho biết, sau 4 năm hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế, doanh thu tăng 2,2 lần, tốc độ tăng trưởng bình quân là 22%/năm, đứng đầu về đóng góp cho ngân sách nhà nước. Điểm đặc biệt trong thời gian này là tập đoàn đã tách bưu chính ra khỏi viễn thông, trích 25% lợi nhuận sau thuế cho bưu chính công ích.

Là tập đoàn duy nhất được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm cơ cấu tổ chức không có Hội đồng thành viên hay Chủ tịch công ty mà chỉ gồm Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng, Tổng Giám đốc Viettel Hoàng Anh Xuân cho biết, đến năm 2010, doanh thu của Viettel tăng hơn 3.000 lần, vốn chủ sở hữu tăng 12.000 lần, lợi nhuận tăng 16.000 lần; tỷ suất lợi nhuận/tài sản luôn cao hơn 20% trong khi trung bình ngành là 17%. Hiện nay, tập đoàn đã sản xuất được một loạt thiết bị an ninh quân sự phục vụ cho an ninh quốc phòng và đến năm 2012 sẽ sản xuất thiết bị công nghệ cao, giảm nhập khẩu.

“Đặc biệt vai trò của tập đoàn nhà nước trong nền kinh tế quốc dân đối với thực hiện các dự án trọng điểm của đất nước là rất quan trọng. Nếu không có sự tham gia của các tập đoàn thì không thể có những tổ máy phát điện sớm so với kế hoạch như Thủy điện Sơn La,” Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam Dương Khánh Toàn khẳng định.

Mô hình tổ chức còn nhiều tồn tại

Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, hiện nay trong các tập đoàn kinh tế về cơ bản mới dựa trên cơ sở hình thức liên kết “cứng” về vốn theo mô hình công ty mẹ-công ty con, mà chưa triển khai được các hình thức liên kết “mềm” thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ chung trong tập đoàn theo nguyên tắc thị trường để giảm bớt việc theo dõi, giám sát, quản lý vốn nhà nước theo nhiều tầng nấc.

Đồng quan điểm này, ông Hoàng Anh Xuân cũng cho rằng mô hình tổ chức tập đoàn không nên “cứng hóa” mà phải”mềm hóa.” Nếu chỉ tách một chi nhánh phải mất 3 năm, như thế sẽ không thể kinh doanh được. Ông Xuân đề xuất một số mô hình tổ chức doanh nghiệp bên dưới nên để tập đoàn tự quyết định vì điều hành và mô hình tổ chức liên quan đến chức năng nhiệm vụ của tập đoàn.

Chi phối theo tỷ lệ vốn là phương thức chi phối chủ yếu trong các tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, việc này cũng đặt ra một thực tế là nếu chỉ thuần túy dựa trên nguyên tắc đối vốn thì Công ty mẹ (nắm giữ 51% vốn điều lệ) gặp khó khăn để chi phối được các công ty con trong những quyết định quan trọng, nhất là những công ty con hoạt động ở những lĩnh vực then chốt của tập đoàn.

Ông Phùng Đình Thực cho rằng, vốn sở hữu nhà nước chiếm ưu thế nên việc điều hành đôi lúc còn biểu hiện hành chính, chưa thực sự tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường. Chủ sở hữu nhà nước tại tập đoàn chưa thực sự đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề tuân theo quy luật kinh tế thị trường như về thành lập mới, sáp nhập, giải thể doanh nghiệp thuộc thẩm quyền; đầu tư mua mỏ, tham gia các dự án lớn trong và ngoài nước, lựa chọn nhà thầu để kịp thời huy động vốn phân bổ tối ưu các nguồn lực đạt hiệu quả cao.

Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các tập đoàn vẫn còn những bất cập, thiếu đồng bộ và chưa kịp thời, chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với quản lý của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Điều lệ hoạt động và một số quy định với tập đoàn chưa tạo sự năng động, sáng tạo cho tập đoàn đúng như quy định của Luật Doanh nghiệp.

Theo quy định hiện hành, tập đoàn kinh tế là một nhóm công ty có quy mô lớn, không có tư cách pháp nhân, chỉ có Công ty mẹ tập đoàn và từng doanh nghiệp tham gia nhóm này có tư cách pháp nhân. Điều này dẫn đến nhiều khi làm giảm hiệu lực điều hành chung đối với những vấn đề cần thống nhất trong tập đoàn vì Công ty mẹ can thiệp vào các công ty con, công ty liên kết phải tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp.

Phân tích của Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp cho thấy, một số thành viên trong các tập đoàn kinh tế được tổ chức thành các tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con với 2-3 cấp doanh nghiệp, bên cạnh chuyên môn hóa theo ngành, nghề trong tập đoàn thì cũng làm cho cơ cấu tổ chức tập đoàn trở nên phức tạp. Nhiều công ty con của các tổng công ty này có cả phần vốn góp của một số đơn vị thành viên khác trong tập đoàn làm cho cơ cấu sở hữu trong tập đoàn trở nên chồng chéo, phức tạp.

Mặt khác, một số tập đoàn kinh tế có hiện tượng công ty con đầu tư ngược trở lại công ty mẹ. Công ty mẹ góp vốn vào cả công ty con và công ty cháu làm cho quan hệ đầu tư, góp vốn và cơ cấu của tập đoàn trở nên phức tạp, chồng chéo. Có những trường hợp công ty con phải gánh chịu cho Công ty mẹ, công ty cháu gánh chịu cho công ty con những khoản đầu tư không hiệu quả dẫn đến nguy cơ thua lỗ.

Cần sửa đổi cơ chế chính sách

Theo ông Phạm Long Trận, Chủ tịch Hội đồng thành viên VNPT, thời gian tới, mô hình tổ chức của tập đoàn cũng phải phù hợp với sự biến đổi của công nghệ mới để phát triển. Với sự điều chỉnh, bổ sung khung pháp lý của nhà nước, những văn bản dưới luật theo đặc thù của từng loại hình doanh nghiệp, tập đoàn sẽ triển khai công ty hóa, giảm thiểu các đơn vị phụ thuộc, cấu trúc lại phạm vi đầu tư, điều chỉnh vốn của tập đoàn tại các công ty cổ phần. tập đoàn cũng xây dựng lộ trình đổi mới các doanh nghiệp bên dưới không phải trình Chính phủ vì sợ kéo dài thời gian, tập đoàn sẽ chịu trách nhiệm trước nhà nước về quyết định của mình.

Tại hội nghị, Chủ tịch Trần Xuân Hòa đưa ra quan điểm cần phải có chế tài thế nào để giải quyết rốt ráo việc quản lý tài nguyên khoáng sản đang trở thành vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Ông Hòa cho rằng việc bảo vệ tài nguyên phải song hành với cả quá trình khai thác than. Vinacomin đang phối hợp với công an các tỉnh tổ chức vây bắt các đối tượng khai thác than trái phép. Với mức xử phạt khoảng 20 triệu đồng/xe than như hiện nay thì chưa đủ sức răn đe. Trong khi lực lượng bảo vệ của tập đoàn tại Quảng Ninh là 4.500 người nhưng cũng không kham nổi.

Đại diện Tổng Liên đoàn lao động cũng kiến nghị, khung pháp lý về mô hình tập đoàn còn thiếu và chưa đồng bộ, nhất là cơ chế quản lý, giám sát; đồng thời phải làm rõ đại diện chủ sở hữu, kiện toàn vai trò lãnh đạo của Đảng.

Liên quan đến vốn chủ sở hữu, đại diện Viettel đưa ra ý kiến Hội đồng quản trị không nên có thành viên từ trên Bộ chủ quản kiêm nhiệm. Công ty mẹ là phải trực tiếp kinh doanh. Vừa kiểm tra, vừa giám sát tập đoàn thông qua việc quản lý theo ngày, tuần, tháng tuỳ theo loại hình doanh nghiệp qua hệ thống công nghệ thông tin. Đồng thời cho rằng không cực đoan trong việc tập đoàn đầu tư dàn trải, nếu cấm hết là không nên mà nên chọn các loại hình doanh nghiệp. “Quan trọng là các tập đoàn phải xây dựng được chiến lược vì người xây dựng chiến lược chính là người điều hành chiến lược,” ông Xuân nói./.

Mai Phương (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục